Sau thời gian điều trị COVID-19, phục hồi và
có kết quả âm tính với vi rút SARS-COV-2, nhiều người
vẫn phải đối diện các vấn đề sức khỏe do hội chứng hậu COVID-19 hay hội chứng
COVID-19 kéo dài. Đây là vấn đề
đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cảnh báo và đang được giới y khoa cả trong
nước lẫn quốc tế quan tâm. Trong đó di chứng tim mạch hậu COVID-19 thường gặp
nhất và được đánh giá là nghiêm trọng và khó phục hồi hơn cả.
Hình minh họa
Tổ
chức Y tế thế giới và Trung tâm Kiểm
soát dịch bệnh Hoa Kỳ đã tổng kết trên 200 dấu hiệu của người sau mắc COVID-19. Nổi bật là các dấu hiệu cảnh báo
cần sự trợ giúp y tế khẩn cấp từ nhân viên y tế, tổn thương tại phổi như khó
thở; mệt mỏi, căng thẳng, lo âu, đau hoặc tức ngực, các vấn đề
về trí nhớ và khả năng tập trung, khó ngủ (mất
ngủ), tim đập nhanh, chóng mặt, đau khớp, trầm cảm và
lo âu…
Mắc COVID-19
đều có thể có tình trạng hậu COVID-19 bất kể mọi mức độ của bệnh. Các triệu
chứng có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng, hầu hết những người gặp triệu
chứng hậu COVID-19 trải qua các triệu chứng nhẹ hoặc vừa. Mặc dù COVID-19 ảnh
hưởng chủ yếu đến phổi, tuy nhiên vi rút SARS-CoV-2 vẫn có thể gây tổn hại đến nhiều cơ
quan khác, bao gồm tổn thương cơ tim và ảnh hưởng đến chức năng tim, thận và não.
Ở một số
người, các vấn đề ảnh hưởng tới sức khỏe lâu dài có thể bao gồm biến chứng bệnh
tim mạch hậu COVID-19. Di chứng này có thể xảy ra trên cả những người có sẵn
bệnh nền và người khỏe mạnh, làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ, thuyên
tắc phổi.
Có những
người phải chịu tổn thương tim lâu dài, phải điều trị từ 3 đến hơn 6 tháng vẫn
chưa khỏi cảm giác mệt và rối loạn nhịp tim. Bệnh nhân có thể bị suy tim, dẫn đến tình
trạng ngộp thở khi đang ngủ ban đêm. Nếu không phát hiện kịp thời những biến
chứng tim mạch, bệnh nhân có thể bị viêm tim cấp dẫn đến tử vong.
Có nhiều lý do
khi mắc COVID-19 có thể làm tổn thương cơ tim và ảnh hưởng đến
chức năng tim. Các tế bào trong tim có angiotensin chuyển đổi các thụ thể
enzyme-2 (ACE-2) nơi vi rút SARS-CoV-2 bám vào trước
khi xâm nhập vào tế bào. Tổn thương tim cũng có thể là do mức độ viêm cao lưu
thông trong cơ thể. Khi hệ thống miễn dịch của cơ thể chống lại virus, quá
trình viêm có thể làm hỏng một số mô khỏe mạnh, bao gồm cả tim.
Nhiễm
SARS-CoV-2 ảnh hưởng đến lớp màng tế bào lót bề mặt bên trong của tĩnh mạch và
động mạch (nội mạc mạch máu), có thể gây viêm mạch máu, tổn thương các mạch máu
rất nhỏ và cục máu đông, tất cả đều có thể ảnh hưởng đến lưu lượng máu đến tim
hoặc các bộ phận khác của cơ thể.
Tất cả những
ảnh hưởng trên có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp lên tim và hệ tuần
hoàn (mạch máu) gây ra những hậu quả có thể trầm trọng như suy tim, rối loạn
nhịp tim, tắc mạch máu hệ thống hoặc tĩnh mạch. Sau khi mắc COVID-19, nếu người
bệnh gặp tình trạng tim đập nhanh hoặc đánh trống ngực một cách bất thường, cần
đi khám bác sĩ. Sự gia tăng nhịp tim tạm thời có thể do rất nhiều nguyên nhân
khác nhau, bao gồm cả mất nước. Do đó, cần uống đủ liều lượng nước trong ngày
đặc biệt là khi bị sốt.
Triệu chứng nhận biết biến chứng
tim mạch hậu COVID-19
Khó thở: Cảm
giác hụt hụt hơi, không được khỏe “ như trước kia”, cảm thấy khó thở khi gắng
sức hoặc khi nằm nghỉ. Đau ngực: Ở bên trái hoặc giữa lồng ngực, đau lan ra sau
lưng, vai trái và cằm, đặc biệt triệu chứng sẽ giảm khi chuyển từ trạng thái
hoạt động sang nghỉ ngơi. Hồi hộp đánh trống ngực hoặc nhịp tim không đều.
Ngất, choáng váng - chóng mặt.
Khi nào cần đi tầm soát di chứng tim mạch hậu
COVID-19
Đối với người
có bệnh lý tim mạch, sau khi khỏi COVID-19 chừng 2 tuần thì nên đến gặp bác sĩ
để được đánh giá sức khỏe tim mạch và phát hiện, điều trị sớm di chứng tim mạch
hậu COVID-19 nếu có. Những người không có bệnh nền tim mạch trước đó thì sau
khi khỏi COVID-19 trong vòng 4 - 6 tuần cũng nên gặp bác sĩ chuyên khoa để được
tầm soát di chứng tim mạch”.
Thời điểm tầm
soát hậu COVID-19 nên càng sớm càng tốt và thông thường cần 2 loại xét nghiệm
là: Công thức máu (tìm nguy cơ hình thành cục máu đông) và D-dimer (xác định
trong mạch máu có cục máu đông hay không). Ngoài ra, người bệnh có thể thực
hiện thêm: đo điện tâm đồ (chẩn đoán rối loạn nhịp tim, dấu hiệu bệnh lý mạch
vành), siêu âm tim (đánh giá cơ tim, phát hiện suy tim).
Với những
trường hợp COVID-19 nặng, phải thở máy hoặc nằm một chỗ thì cần đánh giá di
chứng với cách thức chẩn đoán hình ảnh cao cấp hơn như chụp điện toán cắt lớp
MSCT, chụp mạch vành hoặc siêu âm tĩnh mạch chi dưới.
Biện pháp giảm thiểu tổn thương
tim mạch hậu COVID-19
Không nên
gắng sức ngay sau khi khỏi COVID-19. Tập thở theo các bài tập phục hồi đường thở hàng ngày. Tăng thời gian
nghỉ ngơi, tránh căng thẳng. Hạn chế rượu bia, chất kích thích, không hút thuốc
lá. Thực hiện chế độ ăn lành mạnh: tăng cường rau xanh, trái cây tươi và thực
phẩm giàu chất chống oxy hóa.
Bảo An